Trong cuốn Lịch sử Đảng bộ xã còn ghi rõ “Những thợ khéo tay như cụ Bát Khâm, Cưu Truyện làm được nhiều công trình nghệ thuật tinh xảo được triều đình nhà Nguyễn khen thưởng và phong phẩm hàm”. Qua hàng trăm năm, đến nay, nghề sơn mài truyền thống vẫn giữ nguyên “hồn cốt” chuyên sản xuất các sản phẩm sơn mài trên chất liệu gỗ, phục vụ sinh hoạt tôn giáo. Ngoài ra làng nghề phát triển nhiều mẫu mã sản phẩm tiêu dùng, sinh hoạt hiện đại phù hợp với nhu cầu khách hàng ở cả trong nước và xuất khẩu.
Sơn lót cho sản phẩm tại làng nghề sơn mài Hổ Sơn, xã Liên Minh (Vụ Bản)
Anh Nguyễn Phú Hào, chủ cơ sở sơn mài uy tín trong làng với 15 tay thợ chuyên sản xuất đồ thờ, sơn son, thếp vàng và phục chế tượng cổ. Vừa tỉ mẩn trét sơn lên tấm hoành phi, rồi mài mài, lau lau, anh Hào vừa vui vẻ trò truyện với chúng tôi. "Tính đến nay, gia đình tôi đã có hơn 100 năm theo nghề sơn mài này. Đến tôi là đời thứ 7 vẫn đau đáu giữ gìn kỹ nghệ tinh túy mà ông cha truyền dạy", anh Hào cho biết.
Tô tượng phật và vẽ trang trí sản phẩm sơn mài truyền thống tại làng nghề sơn mài Hổ Sơn, xã Liên Minh (Vụ Bản).
Cái quý của nghề sơn mài là chỉ sử dụng thuần túy các nguyên liệu truyền thống là sơn ta, vàng quỳ, bạc quỳ, đất sét, vải, giấy, nhựa thông... với 2 màu chủ đạo là son (là chất bột son đỏ chế biến từ một loại khoáng thạch là thần sa), then (màu đen - màu của bản thân chất sơn đen), vàng, bạc, cùng khả năng điều tiết, gia giảm lượng cánh gián và kỹ thuật “nhào nặn”, “chôn vùi” rồi lại “mài moi” để tạo nên sản phẩm có màu sắc đẹp, bền, bóng, dày, mỏng, đậm, nhạt khác nhau tùy theo chủ ý của tay thợ. Nói cho vui mang tính khái quát những thao tác chính của nghề chứ thực chất tên “sơn mài” đã thể hiện bản chất của 2 phần việc chính là sơn và mài lớp phủ lền bền mặt sản phẩm đến 5 hoặc 7 lần, mỗi lần là một loại sơn khác nhau, dụng cụ phết sơn, mài sơn cũng khác theo, khi thì dùng chổi tết bằng tóc, lúc lại dùng lá chuối khô, lá mít, đá cuội để mài trong nước… sau cùng mới khảm, vẽ, thếp vàng, thếp bạc rồi dùng sơn cánh gián phủ lên bề mặt một lớp nữa. Lúc này toàn bộ bề mặt sản phẩm chỉ có màu đen, phải tiếp tục hong thật khô rồi lại đem mài với nước. Càng mài, những chi tiết, đường nét của sản phẩm mới dần dần lộ ra và nổi lên hoa văn mới hoàn tất quy trình.
Chăm chút từng nét vẽ trên sản phẩm sơn mài truyền thống tại làng nghề sơn mài Hổ Sơn, xã Liên Minh (Vụ Bản)
Trong suốt quá trình làm lại phải tránh gió, tránh bụi, tránh ánh sáng mạnh và tránh cả côn trùng, ruồi, muỗi bay vào. Vậy nên thời xưa khi màn mộc, màn tuyn hiếm lắm, người không có để dùng tránh muỗi nhưng phải thường xuyên mắc màn, mang cả đồ nghề lỉnh kỉnh vào trong đó mới làm việc được. Chất liệu để phủ sơn mài lại rất đa dạng tùy thuộc vào mục đích sử dụng. Ví như đồ thờ tự nhất định phải là các loại gỗ mít, dổi, vàng tâm; đồ trang trí có thể là gỗ dán, giấy nện; tre, trúc, vỏ dừa và ngày nay cả nhựa composit. Sơn mài nhanh chóng thích ứng với thị hiếu người tiêu dùng trong và ngoài nước, phân khúc thành 3 dòng sản phẩm chính là đồ thờ dùng trong công trình tôn giáo, tín ngưỡng như tượng phật, ban thờ, phù điêu, ngai, ỷ, kiệu, cống…; đồ mỹ nghệ trang trí nội thất như bình, khay, đĩa, tranh sơn mài nghệ thuật... Gia đình anh Hào và người làng Hổ Sơn vẫn chuyên theo dòng trang trí đồ thờ tự, phục chế tượng cổ sơn son thếp vàng.
Phục chế tượng cổ tại cơ sở sản xuất của gia đình anh Nguyễn Phú Hào,
làng nghề Hổ Sơn, xã Liên Minh (Vụ Bản).
Lúc cực thịnh, ngoài những hộ làm sơn mài trang trí đồ thờ tự, làng Hổ Sơn có hợp tác xã với 2 xưởng sản xuất hàng sơn mài xuất khẩu sang các nước Đông Âu và 1 xưởng chuyên dạy nghề cho thợ trẻ, làm cốt và sửa chữa dụng cụ. Đến nay, do nhu cầu tiêu dùng của thị trường thay đổi, nghề làm sơn mài truyền thống cũng ít việc hơn. Chỉ còn những thợ tay nghề giỏi, thật tâm huyết với nghề như các gia đình ông, bà Nguyễn Phú Nhương; Nguyễn Thị Dung, Nguyễn Thị Thúy, Hoàng Như Phóng tập trung vào những sản phẩm truyền thống ban đầu là đồ thờ tự.
Nét tinh xảo của sản phẩm sơn mài làng nghề Hổ Sơn sau khi hoàn thiện.
Từ tiết tháng 10 đổ ra đến hết tiết thanh minh là lúc làng nghề sôi động nhất trong năm bởi là thời điểm khách hàng có nhu cầu sang sửa tu thiết không gian thờ cúng của gia đình, thôn làng (đình, đền, chùa, miếu). Không chỉ tư vấn lựa chọn làm sản phẩm cho phù hợp mà các thợ nghề thủ công còn hướng dẫn những quy tắc trưng bày không gian thờ cúng, lễ hội truyền thống theo đúng phép tắc xưa truyền lại. Giá sản phẩm khác nhau, dao động từ vài trăm nghìn như giá để bát hương, cốc chén, chân nến thờ đến vài chục triệu đồng như kiệu, hoành phi, câu đối… Còn tạc tượng hay phục chế tượng cổ thì cả người làm nghề và khách hàng thường không mặc cả chi li tiền nong, chỉ ước trong khoảng để đôi bên chuẩn bị, cái cốt nhất vẫn là người thợ nhất tâm làm đến thật đẹp, thật ưng ý mới thôi; khách hàng hoan hỉ vì chất lượng sản phẩm mà không so đo giá cả nhiều ít, có khi còn tặng thêm cho cơ sở như một lời cảm ơn.
Xu hướng sử dụng sản phẩm sơn mài và phục chế tượng cổ đang được phục hồi. Nghề này còn có thể khai thác với hướng phát triển kinh tế làng nghề với du lịch văn hóa bản địa nếu được các các cấp chính quyền, các ngành chức năng hỗ trợ./.
Theo baonamdinh.vn